Thư viện

Thư viết cho… một con nhóc


Hải Đăng

Gởi con nhóc mỗi sáng ta vẫn nhìn thấy trong chiếc gương soi. 

Nhóc mi có biết không, mi có nhiều nét khiến ta chán ghét đến không chịu được, có những lúc ta chán đến mức muốn bắt lấy ngươi mà ném đi xa thật xa, ném đi đến một nơi nào đó mà ta vĩnh viễn không nhìn thấy mi. Vì mi đáng ghét. 
Tiếp tục đọc

ĐÓA HOA KHÁT VỌNG


Đóa hoa khát vọng

 

Có một nàng hoa Violet yêu kiều và ngào ngạt hương sống bình yên giữa đám bạn bè, đong đưa một cách hạnh phúc giữa muôn hoa khác trong một khu vườn vắng. Một buổi sáng nọ, khi những cánh hoa vẫn còn lấp lánh những hạt sương đêm, nàng nghiêng đầu và ngó quanh; nàng bỗng thấy nụ hoa hồng xinh đẹp vươn người lên cao một cách tự hào giống như ngọn đuốc đang cháy tỏa ánh sáng rạng ngời. Tiếp tục đọc

Hương tình đầu


Hương tình đầu

 Truyện ngắn của Trầm Thiên Thu

– Dạ, chào bác.
– Chào cháu.
– Loan đi học chưa bác?
– Nó sắp đi đó. Loàn à, đi học đi con. Vọng đợi con nè.

Chẳng cần mẹ nói tên, tôi cũng đã biết đó là tiếng của Vọng. Hàng ngày Vọng vẫn qua rủ tôi đi học. Nhà Vọng cách nhà tôi một mặt đường và một khu vườn rộng. Đường đến trường chỉ mất khoảng 15 phút, nhưng chúng tôi thường đi sớm 5 phút để khỏi vội vàng. Tiếp tục đọc

Giải mã chuyện Tây Du (18) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Hầu vương được hư cấu như thế nào?


Tiếp tục đọc

Giải mã chuyện Tây Du (17) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Đường tăng thỉnh kinh hư cấu và lịch sử


Trên đây, Phụ lục 2: Hư thực đôi điều, cho biết rằng ngoài tác phẩm của Ngô Thừa Ân, đời nhà Minh còn có bộ Tây du ký truyện của Dương Chí Hòa, gồm bốn mươi mốt hồi. Nhưng trước Dương Chí Hòa và Ngô Thừa Ân, câu chuyện tây du thỉnh kinh của sư Huyền Trang đời Đường đã từng được thần kỳ hóa, truyền khẩu trong dân gian, dựng thành tuồng hát… Tiếp tục đọc

Giải mã chuyện Tây Du (16) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Nói chuyện Trư Bát giới



Bài Đường tăng! Anh là ai? cho thấy cuộc thỉnh kinh của Đường tăng gồm năm nhân vật mang tính biểu tượng. Năm mà một, là một con người với năm phương diện. Trong năm nhân vật đó, Bát giới có vẻ như đã được hư cấu hơi bất công với những tính cách bị cường điệu.

Để tượng trưng cho những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người, Bát giới được cách điệu hóa thành một nhân vật nửa người nửa thú. Cái phần may mắn thuộc về người thì lại quá dung tục: bụng phệ, quần áo xốc xếch trễ tràng, hay nói dối, khéo biết nịnh, lười biếng, ham ngủ, thích đùn việc cho kẻ khác mà lỡ khi không thối thác được, phải đành cáng đáng đảm đương thì chàng bèn vênh váo, ra mặt ta đây.

Bát giới rất ham ăn, ăn nhiều chừng nào cũng được, ăn theo kiểuthực bất tri kỳ vị (không biết mùi mẽ món ăn ra sao). Chuyện xảy ra ở quán Ngũ trang, núi Vạn thọ, là một trong những trường hợp tiêu biểu. Ở Hồi thứ 24, sau khi Tề thiên chia phần cho ba anh em mỗi người một quả nhân sâm, thì Bát giới “vừa cầm lấy quả, đã phồng mồm trợn mắt, đút tỏm vào miệng, nhai ngốn ngấu nuốt ực xuống bụng…” Rồi chàng hỏi: “Các anh ăn gì đấy? (…) Mùi vị ra sao?” Chàng thú nhận: “…em ăn vội quá (…) chẳng biết mùi vị ra sao cả, chẳng biết nó có hột hay không nữa…” [TDK III 1988: 90].

Bát giới còn có tánh… ẩu, ăn nói bạt mạng. Ở Hồi thứ 19, khi đã nhận Đường tăng làm thầy, trước phút lên đường thỉnh kinh, trước cái giờ bắt đầu thực hiện sứ mạng thiêng liêng cao cả, Bát giới vẫn rán… gỡ gạc:“Thưa sư phụ, con đã nhận giới hạnh của bồ tát (…) ở nhà bố vợ ăn chay giữ giới, không bao giờ ăn mặn, nay gặp sư phụ con xin phá giới một bữa.” [TDK II 1982: 186].

Hay như Hồi thứ 23, khi mấy thầy trò tá túc qua đêm tại nhà bà góa họ Giả có ba cô con gái nheo nhẻo chưa chồng, muốn kén mấy thầy trò làm rể, ứng cử viên Bát giới mau mắn tìm cách loại bỏ ngay “đối thủ số một” là chính sư phụ mình. Trước mặt bà mẹ góa, Bát giới nói: “Thưa mẹ, mẹ hãy thuyết phục các em đừng có quá kén chọn như thế. Như thầy Đường tăng của con, tuấn tú đẹp trai thật, mà không dùng được việc gì đâu.”

Bà mẹ nghe vậy, cẩn thận khuyên Bát giới nếu muốn cưới vợ thì phải thương lượng với sư phụ, chàng ta gạt phắt: “Không cần phải thương lượng. Ông ấy có phải bố đẻ con đâu. Muốn hay không là do con tất.”

Vì chỉ có một ứng cử viên mà lại đến những ba nàng con gái, bà mẹ góa than thở: “Gả đứa lớn thì sợ đứa thứ hai tị. Gả đứa thứ hai thì sợ đứa út tị. Muốn gả em út cho con lại sợ đứa lớn tị…” Bát Giới sốt sắng đề nghị: “Nếu sợ các em tranh nhau, thì mẹ gả tất ba em cho con là xong, đỡ phải cãi nhau ầm ĩ, làm rối gia đạo. (…) Giá mà thêm mấy cô nữa, con rể mẹ cũng sẵn sàng thu nhận. Thuở nhỏ, con đã học được phép nhẫn nại, có bao nhiêu vợ con cũng có cách ăn ở được vừa lòng.” Và đến khi bà mẹ bảo rằng các con bà không chịu lấy Bát giới làm chồng, anh chàng ứng xử thật mau mắn: “Mẹ ạ, các em không chịu lấy con, hay là mẹ lấy con vậy.” [TDK III 1988: 62-68].

Tóm lại, đối với chuyện hưởng lạc thú trần tục, Bát giới vốn giàu sáng kiến, nhanh trí không ai bằng.

Là nhân vật nửa người nửa thú, vì cái đầu heo mà Bát giới mang họ Trư. Trư là heo; chữ Hán viết trư với bộ thỉ, và thỉ cũng là heo. Ba lần heo cả thảy! Cái đầu vốn được coi là nơi chỉ huy mọi tư duy của con người. Tất cả những vận động tư duy của họ Trư thông qua cái đầu heo như vậy đố làm sao khỏi mang “dấu ấn” của… heo!

Thế thì trăm cám đổ đầu heo. Lý lịch trích ngang của Bát giới cho thấy chàng mới vào đời đã có… tiền án, tiền sự rồi. Thuở còn làm Thiên bồng Nguyên soái cai quản sông Trời (Thiên hà), một lần dự tiệc chiêu đãi tại cung Diêu trì, quan anh lỡ vui quá chén, say xỉn, nhè đi lạc vô cung Quảng hàn, dở trò bốc hốt cô Hằng Nga. Đội tuần tra nhà Trời (tức là Củ soát Linh quan) bèn bắt giữ và truy tố quan ra tòa về tội quấy rối tình dục. Thượng đế đề nghị mức án cao nhất là tử hình (chém đầu).

Rủi ro cho quan là Thiên đình không có… án treo. Thành thử, dù Thái bạch Kim tinh hết sức vận động mà cũng chỉ có thể xin giảm án xuống mức thấp nhất là đánh hai ngàn gậy và đày biệt xứ (bắt hạ trần). Bát giới do nghiệp lực dẫn dắt, không dè sanh nhằm đúng… ổ heo!

Gắn cho Bát giới chiếc đầu heo, phải chăng Ngô Thừa Ân đã cố tình buộc anh chàng vào những rắc rối tính dục? Nếu Sigmund Freud (1856-1939) có dịp phân tích, biết đâu sẽ thêm được vài phát kiến bổ sung cho lý thuyết về tính dục của ông. Trong truyện Tây du ít ra có hai đoạn tiêu biểu.

Một, ở Hồi thứ 23, đoạn kể bà góa họ Giả kén rể. Để giúp Bát giới chọn một trong ba cô con gái làm vợ, bà gợi ý: “Ba đứa con gái ta khéo tay lắm, đứa nào cũng có móc một chiếc áo lót bằng sợi gấm trân châu, con mặc vừa áo của đứa nào, thì mẹ gả đứa ấy cho.” Bát giới khoái chí, liền nhanh nhảu: “Mẹ mang ngay cả ba chiếc áo ra đây để con mặc thử, con mặc vừa tất là con sẽ lấy tất đấy.”

Người đàn bà quay vào trong nhà, rồi chỉ mang ra một chiếc đưa cho Bát giới. Anh chàng cởi phăng chiếc áo gấm xanh đang mặc ra, giật lấy chiếc áo lót con gái, mặc ngay vào người… [TDK III 1988: 69].

Hai, ở Hồi thứ 72, đoạn kể Bát giới trêu ghẹo bảy con yêu nữ nõn nà ở suối Trạc cấu. Khi tận mắt chứng kiến bảy cô ả đang… “trăm phần trăm” ngâm mình dưới suối, trông thật tươi mát, thì Bát giới mừng rơn, cười nói: “Các nữ bồ tát đang tắm đấy à? Cho hòa thượng tôi tắm cùng được không?”

Nói là làm. Cựu Thiên bồng Nguyên soái nhà ta ỷ mình thạo nghề sông nước, liền “cởi tuột chiếc áo dài bằng gấm thêu, rồi nhảy tòm xuống nước (…) biến thành một con cá trê, (…) cứ nhanh như cắt luồn quanh kẽ đùi mấy nữ quái.” [TDK VIII 1988: 45-46].

Nói theo ngôn ngữ tính dục của Sigmund Freud, việc khoái mặc áo lót đàn bà con gái cho thấy Bát giới có triệu chứng bị bệnh fetishism; còn việc hòa thượng ta cắc cớ biến làm cá trê cứ nhè kẽ đùi con gái người ta mà quậy tưng chứng tỏ anh chàng bị cái gọi là libido chi phối.

Có lẽ hiểu rõ ẩn ức tận đáy lòng Trư Ngộ năng không ai khác hơn là chính… Bát giới. Cho nên, ở Hồi thứ 23, tuy làm đệ tử cửa Phật mà anh chàng cũng chẳng nề hà gì khi thú thật với Tề thiên rằng: “Người tathường nói: Hòa thượng là con ma háo sắc.” [TDK III 1988: 61].

Đúng là phát ngôn có “khẩu khí”!

Kết thúc cuộc thỉnh kinh, Đường tăng và Tề thiên đều thành phật. Sa tăng thành kim thân la hán cũng oai chán. Đến đỗi con ngựa kia cũng lột xác hóa rồng thiêng, mỹ hiệu là Bát bộ Thiên long. Lận đận duy một mình anh Bát giới!

Kết thúc cuộc thỉnh kinh, ở Hồi thứ 100, khi Phật tổ xét thành tích thi đua khen thưởng cá nhân tiên tiến, xuất sắc, họ Trư bị phê: “Tính ương vẫn còn, sắc tình chưa hết”. Rồi xét vì năng khiếu “ăn khoẻ, tính lười, dạ dày to lắm” [TDK X, 1988: 208] của Trư, Như lai phong cho chàng làm Tịnh đàn Sứ giả với chức năng đặc nhiệm là có đủ thẩm quyền để… ăn uống được đồ cúng tế của khắp cả thiên hạ.

Nếu coi cuộc thỉnh kinh của năm thầy trò Đường tăng là sự vận động tiến hóa của mỗi con người để hoàn hảo hóa bản thân, để đạt tới cứu cánh toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, thì sự thất bại của Bát giới phải chăng là bi kịch của kiếp người? Phải chăng cái bản năng vật dục, cái chất trư-bát-giới tiềm tàng trong mỗi con người hóa ra lại rất khó đối trị?

Nếu có thể hiểu được như vậy, thì phải chăng trong cuộc tranh đấu gian khó, quyết liệt mà vinh quang nhất của mỗi người để trở thành một con Người chính danh với chữ N viết hoa trân trọng, chung quy lại sự thành bại vẫn là tùy thuộc ở kết quả hoán cải được bản năng trư-bát-giới trong chính mình?

Phải chăng cái chất trư trong con người có xu hướng kéo tụt con người xuống tận cùng mọi nấc thang giá trị đạo đức, nhưng chính sự chế ngự thành công cái chất trư đó lại sẽ đưa con người tiến lên được nấc thang cao tột của giá trị con Người?

[Với nhan đề Chất Trư trong mỗi con người, đã đăng báo Ngườilao động, số Xuân Ất Hợi, tháng 01.1995.)

(31.12.1994)

LÊ ANH DŨNG

Giải mã chuyện Tây Du (15) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Tây du ký có bài Lão tôn Phật không?


Thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi có người nghĩ rằng: “Trong Tây du ký, Ngô Thừa Ân đã mạnh mẽ bài bác, nhạo báng đạo Lão, đã biến hình thành đạo tu tiên, dưới nhiều hình thức, từ nhẹ nhàng đến sống sượng, thô bạo để đề cao Phật giáo…” [Lý Việt Dũng, báo Người lao động cuối tuần, số 127, ngày 09-7-1993, tr. 19.]

Đạo Lão có nhiều trường phái, trong đó không tránh khỏi những biến tướng rơi vào chỗ mất chân truyền hay tông chỉ vô vi thanh tịnh của đạo Lão. Trong Tây du ký, Ngô Thừa Ân nếu có bài bác, chính là bài bác cạnh khía mê tín dị đoan, câu chấp hình danh sắc tướng của các đạo sĩ.

Ngô Thừa Ân thực ra rất tôn trọng và hiểu đúng chân truyền nội đơn (tịnh hay thiền) của Lão giáo [Phương Tây có khi dịch là alchemy (Anh), alchimie (Pháp)]. Theo đó, đạo giải thoát phải thực hành từ chính trong thân hành giả, ngoài thân không có đạo giải thoát. Đạo Lão dùng thuật ngữ nội dược (internal elixir) để ám chỉ lý này. Nếu lầm lẫn tưởng rằng có thể bào chế ngoại dược (external elixir) để làm thuốc trường sinh bất tử là rơi vào bàng môn tả đạo.[ Xem lại Phụ lục 3: Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân Tây du ký. Khi Thành cát Tư hãn hỏi Khưu Trường xuân: “Từ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?” Chân nhân đáp: “Thần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.” Thuốc trường sinh chỉ là ảo tưởng về ngoại dược. Thuật trường sinh là phương pháp tu thiền, tịnh luyện (nội dược). Câu trả lời của Khưu Chân nhân rất sâu sắc.]

Thử nêu thí dụ tiêu biểu, Hồi thứ 44 và 45 kể việc Ngộ không, Bát giới, Sa tăng vào quán Tam thanh, dẹp hết các cốt tượng trên bệ thờ đi; và khi các đạo sĩ mê muội quỳ lạy xin “kim đơn” để được trường sinh bất tử, ba anh em bèn hội ý chớp nhoáng và hào phóng ban cho ngay mấy bình… nước tiểu! [TDK V 1988: 101-110]

Nếu vịn vào sự việc này rồi đề quyết Ngô Thừa Ân báng bổ đạo Lão thì chẳng khác nào mượn cớ Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên (738-824) đời Đường chẻ tượng Phật nơi chùa Huê lâm, đất Trường An, để kết án Thiền sư hủy báng Phật, phạm tội đại ác nghịch.

Cũng vậy, nếu chấp cứng vô mặt chữ truyện Tây du, thì khi đọc Hồi thứ 16, tới đoạn các sư chùa Quan âm dở trò ma giáo, tự đốt chùa mình vì mong cướp đoạt cà sa báu của Đường tăng [TDK II 1982: 112-134], hay khi đọc Hồi thứ 23, thấy Bát giới tuyên bố với Tề thiên một câu xanh rờn rằng: “Người ta thường nói: Hòa thượng là con ma háo sắc.” [TDK III 1988: 61] thì biết đâu chừng thiên hạ cũng dám chụp mũ Ngô Thừa Ân là bài Phật tôn Lão lắm chứ?!

Cho nên khi đã thấu đáo chỗ nghịch thường này ở truyện Tây du thì cũng tức khắc sẽ hiểu vì sao trong lúc triết gia Đức Friederich Wilhelm Nietzsche (1844(1900) bị chụp mũ là chống Chúa (anti-Christ), chống Ki tô giáo (anti-Christianity), thì một triết gia Đức khác là Karl Theodor Jaspers (1883-1969) vốn một lòng sùng tín Chúa lại quả quyết rằng chỉ có những ai đọc Nietzsche hời hợt ở bề ngoài (only superficial readers) mới dám bảo rằng Nietzche bài xích Chúa.[“I want to show how much of a Christian he is, this ‘Anti-Chirst’ Nietzsche. (…) Only superficial readers blinded by his aggressive extremism can see in him nothing but hostility to all things Christian.” Karl Jaspers, Nietzsche and Christianity, translated by E. B. Ashton, Henry Regnery Co., Gateway Edition, 1963, p. viii.]

Trong Tây du ký, thường thường cứ mở đầu một hồi lại dẫn hai câu thơ đậm nét khẩu quyết hành thiền của đạo Lão. Chẳng hạn:

Ngoại đạo mê chân tính,

Nguyên thần giúp bản tâm.

Hồi thứ 35, [TDK IV 1988: 107].

Trẻ thơ hỏi mẹ tà hay chính,

Kim, mộc thăm dò rõ thực hư.

Hồi thứ 38, [TDK IV 1988: 177].

Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối,

Vượn cắp đao về mộc mẫu trơ.

Hồi thứ 40, [TDK IV 1988: 224].

Yêu ma lừa bản tính,

Nhất thể bái chân như.

Hồi thứ 77, [TDK VIII 1988: 152].

Ngoài ra vẫn có nhiều bài thơ dài mô tả thuật luyện đan (thiền) của đạo Lão. Thí dụ tiêu biểu là chín câu thơ trích trong bài thơ dài ở Hồi thứ 22 như sau:

Nhân thử tài đắc ngộ chân nhân

Dẫn khai Đại đạo kim quang lượng

Tiên tương anh nhi, xá nữ thu

Hậu bả mộc mẫu, kim công phóng

Minh đường thận thủy nhập hoa trì

Trùng lâu can hỏa đầu tâm tạng

Tam thiên công mãn bái thiên nhan

Chí tâm triều lễ Minh hoa hướng

Ngọc hoàng Đại đế tiện gia thăng.

Lê Anh Minh phiên âm, theo bản chữ Hán [TDK 1987: 161].

Bản dịch tiếng Việt còn lại tám câu như sau:

Thế rồi gặp được vị chân nhân,

Đạo lớn truyền cho sáng cõi lòng.

Trước thu anh nhi và xá nữ,

Sau thả mộc mẫu với kim công.

Nước thận từ mi về đầu lưỡi,

Lửa gan từ thận xuống tâm nang.

Ba nghìn công trọn lòng theo lễ,

Lên điện Minh hoa lạy Ngọc hoàng.

[TDK III 1988: 33]

Bài thơ này không thể hiểu theo mặt chữ. Anh nhi, xá lợi, mộc mẫu, kim công, minh đường (mi gian: chỗ giữa hai mi mắt), thận thủy (nước thận), hoa trì, trùng lâu, can hỏa (lửa gan), v.v… đều là thuật ngữ thiền đạo Lão mà những ai đã đọc Thượng thanh Huỳnh đình nội cảnh đều gặp đi gặp lại trong ba mươi sáu chương kinh. Đây là một trong những bài thơ loại “khẩu quyết” luyện kim đơn của đạo gia.

Câu “Nước thận từ mi về đầu lưỡi” chính là dạy uốn cong đầu lưỡi để tạo ra tân dịch (nước miếng) lúc hành thiền.[Xem lại chiếc cầu vồng trên bến Lăng vân trong bài Nẻo về bên ấy.]

Ngô Thừa Ân rõ ràng rất tôn trọng đạo Lão, coi Lão là chánh pháp ngang hàng với Nho, Phật. Tây du ký kể rằng tại chùa Lôi âm, khi trao kinh Phật cho Đường tăng, Phật tổ Như lai dặn dò: “Cái thử nội hữu thành tiên liễu đạo chi ảo diệu.” Nghĩa là: Trong đó có phép mầu đắc đạo thành tiên. (Lê Anh Minh phiên âm, theo bản chữ Hán [TDK 1987: 752].)

Vì cho Nho, Thích, Lão đồng đẳng, xếp chung một bảng giá trị, nên khi trao kinh cho Đường tăng thì Phật tổ cũng dạy: “Tuy vi ngã môn chi quy giám, thực nãi Tam giáo chi nguyên lưu.” Có nghĩa rằng: Tuy là giới luật của cửa Phật nhưng cũng là nguồn dòng của Tam giáo.( Lê Anh Minh phiên âm, theo bản chữ Hán [TDK 1987: 752].)

Quả thực bao hàm trong Tây du ký là dòng tư tưởng Tam giáo đồng tông hay đồng nguyên. Ngô Thừa Ân và Tây du ký bất hủ là do nhiều yếu tố, nhưng thiết tưởng phần lớn cũng vì tác giả truyện Tây du đã có tư tưởng rất trong sáng, đã siêu vượt lên mọi xu hướng độc tôn về triết giáo.

Tam giáo đồng tông

LÊ ANH DŨNG

(16-7-1993 – 22-01-1995)

Giải mã chuyện Tây Du (14) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân tây du ký [trích dịch]


Lời dẫn của người dịch

Khưu Trường xuân tên thật là Khưu Xứ Cơ, tự là Thông Mật, hiệu là Trường xuân tử, quê ở Thê Hà, Đăng Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông được Nguyên Thái tổ tức Thành cát Tư hãn (1162-1227) mời đến triều đình Mông Cổ, cách Trung Quốc vạn dặm về phía Tây.

Nguyên Thái tổ phái hai mươi chiến sĩ Mông Cổ đi mời, dẫn đường, hộ tống quốc khách. Khưu Chân nhân sang Tây Tạng, đem theo mười tám đệ tử. Nguyên Thế tổ hỏi về phép trị nước, Chân nhân bảo lấy kính Trời yêu dân (kính Thiên ái dân) làm gốc. Nguyên Thế tổ lại hỏi về thuật sống lâu (trường sinh cửu thị), Chân nhân đáp hãy giữ lòng trong sạch ít ham muốn (thanh tâm quả dục) làm căn bản.

Nguyên Thế tổ rất đẹp dạ, tặng Chân nhân danh hiệu Thần tiên, phong tước Đại tông sư, giao cho Chân nhân chủ trì Trường xuân cung, cai quản Đạo giáo cả nước, nhờ thế mà Toàn chân giáo cực thịnh.

Toàn chân giáo (cũng gọi Toàn chân đạo, Toàn chân phái) do Vương Trùng dương sáng lập vào đầu đời Kim (triều nhà Kim bắt đầu năm 1115). Toàn chân phái chủ trương Tam giáo hợp nhất, tính mệnh song tu, hoặc tu tính trước tu mệnh sau. Toàn chân phái chiếm lĩnh trọn phương bắc Trung Quốc, còn phương nam là giang sơn của phái Chính nhất (chuyên về phù lục).

Vương Trùng dương có bảy đại đệ tử được đời tôn là Bắc thất chân (bảy vị Chân nhân phương bắc), sau này họ lập thành bảy chi phái của Toàn chân giáo:

1. Mã Ngọc lập Ngộ tiên phái, chuyên về thanh tĩnh, lý luận thanh đàm và luyện nội đơn.

2. Đàm Xứ Đoan lập Nam vô phái, bảo thủ chủ trương của Vương Trùng dương.

3. Lưu Xứ Huyền lập Tùy sơn phái.

4. Khưu Xứ Cơ lập Long môn phái, có ảnh hưởng nhất so với sáu chi phái kia. [Long môn cũng là tên núi, thuộc Lưỡng Châu, Khưu Chân nhân hay ẩn cư ở núi này. Tác phẩm chủ yếu của ông là Đại đan chân chỉ, trình bày chỗ bí yếu của thuật luyện đan (ngồi thiền) là tính mệnh song tu (vừa tu tính vừa tu mệnh).]

5. Vương Xứ Nhất lập Du sơn phái.

6. Hác Đại Thông lập Hoa sơn phái.

7. Tôn Bất Nhị (trước khi xuất gia là vợ của Mã Ngọc) lập Thanh tịnh phái.

Cuộc đời tu hành của Bắc thất chân được tiểu thuyết hóa thành truyện Thất chơn nhơn quả. Sang nửa sau thế kỷ XX, vào những năm sáu mươi, nhà văn Kim Dung (Hong Kong) đưa tất cả bảy nhân vật này vào truyện chưởng với biệt hiệu Toàn chân Thất tử.

[Phần viết này (về Khưu Trường xuân và Toàn chân giáo) căn cứ theo [Hồng Phi Mô 1992: 25-30]. (Lê Anh Minh dịch)]

Trong số mười tám đệ tử theo Khưu Chân nhân sang Tây Tạng có Lý Chí Thường.

Lý là người ghi chép lại cuộc vạn lý tây du này. Năm 1219, từ phía bắc của Bắc Kinh, đoàn người đi về Mông Cổ, theo hướng tây nam băng qua Tashkent và Samarkand, rồi theo hướng nam đến Perwan (ngay phía bắc của Kabul), thuộc Afghanistan.

[Tashkent sau là thủ phủ của Uzbek (Nga), thuộc miền Trung Á. Nó nằm trên một gò ở gần chân dãy núi Thiên Sơn. Nơi đây cũng là một ốc đảo lớn nằm dọc theo con sông Chirchik, sản xuất nhiều trái cây và bông vải, được coi là một trong những miền sản xuất hàng hóa vải sợi lớn nhất châu Á.

Samarkand sau cũng là thành phố của Uzbek, ở trung nam nước Nga. Nó từng là một trạm chủ yếu trên con đường Tơ lụa thời cổ. Người Ả Rập chiếm nó năm 712, biến nơi đây thành một trung tâm văn hóa rất lớn của Hồi giáo. Thành cát Tư hãn chiếm đoạt lại thành phố này năm 1220, và đến năm 1365 nó trở thành kinh đô của vua Mông Cổ là Tamerlane (1336-1405), cũng viết là Tamburlaine, hay Timur. Từ năm 1868 nó thuộc về người Nga.

Kabul là thành phố quan trọng vì nó kiểm soát con đường mậu dịch phía đông bắc dẫn vào Pakistan. Do đó, trong lịch sử ba nghìn năm của nó, thành phố này thường xuyên bị ngoại xâm. Nó từng là kinh đô của đế quốc Mông Cổ (1504-1526), và trở thành thủ phủ của Afghanistan từ năm 1773. (LAD chú)]

Arthur Waley đã dịch tác phẩm của Lý Chí Thường ra tiếng Anh, nhan đề The travels of an alchemist, 1931.

Waley sinh năm 1889 tại London, là nhà thơ, dịch giả, và nhà Trung Quốc học. Học ở Cambridge, rồi ông lấy hai học vị tiến sĩ văn chương ở hai đại học Aberdeen và Oxford. Ông giữ chức phó quản thủ Phòng Ấn loát và Đồ họa của Viện Bảo tàng Anh và giảng dạy Đông phương học tại một học hiệu trực thuộc Viện Bảo tàng này (1912-1930). Năm 1952, ông được trao tặng một huân chương (the Order of Companion of the British Empire). Năm 1953, được Nữ hoàng Anh ban tặng Huy chương Thi ca (Medal for Poetry).

Ngoài bản dịch tác phẩm của Lý Chí Thường, Waley còn có các công trình nghiên cứu và dịch thuật quan trọng như sau:

– Thơ Trung Quốc (Chinese poems, 5 quyển), 1918.

– Nhập môn nghiên cứu hội họa Trung Quốc (An introduction to the study of Chinese painting), 1923.

– Đạo đức kinh (The Way and its power), 1935.

– Luận ngữ (The analects of Confucius), 1938.

– Ba con đường tư tưởng Trung Quốc cổ đại (Three ways of thought in ancient China), 1939.

– Nguyên thị vật ngữ (The tale of genji, 6 quyển, dịch tiểu thuyết Nhật), 1955.

– V.v…

Sau đây là một phần lớn văn bản của Trường xuân Chân nhân tây du ký, dựa theo bản tiếng Anh của Arthur Waley. Tuy nhiên, vì không có trọn vẹn bản tiếng Anh của Arthur Waley, tôi đã sử dụng phần trích đăng của Owen và Eleanor Lattimore, in trong hiệp tuyển Silks, spices and empire, nhà xuất bản Dell Publishing Co. Inc., New York 1971, các trang 57-61.

LAD

(1993-10.02.1995)

Trích dịch Lý Chí Thường Trường Xuân Chân nhân tây du ký

Ngày mùng 1 tháng Tư âm lịch (24-4-1219), chúng tôi đến nơi hạ trại của Khả hãn Tamuga. Lúc này tuyết bắt đầu tan, cỏ xanh phơn phớt một màu. Khi chúng tôi đến, một đám cưới đang được tổ chức trong trại. Các thủ lĩnh các bộ tộc quanh đấy năm trăm dặm cũng đến dự, mang theo nhiều lễ vật chúc mừng. Những chiếc xe đen và lều bạt xếp thành dãy dài, ắt hẳn chứa đến hàng ngàn tân khách.

Ngày mùng 7, Khưu Sư phụ hội kiến Khả hãn và ông ta hỏi Sư phụ về thuật trường sinh bất tử. Sư phụ đáp rằng chỉ có những ai ăn chay lạt và giữ gìn giới luật mới có thể luận bàn về thuật ấy. Cả hai thỏa thuận rằng ông ta sẽ được truyền thụ bí thuật vào ngày trăng tròn (rằm). Nhưng bấy giờ tuyết lại rơi nhiều và vấn đề bị bỏ qua. Hoặc có thể Khả hãn đổi ý, vì ông bảo sẽ chẳng đúng đạo lý nếu như ông hưởng trước cha mình (Đại hãn) bí thuật này trong lúc Đại hãn đã vất vả triệu thỉnh Chân nhân đến đây từ ngàn trùng cách trở. Tuy nhiên Khả hãn truyền lệnh cho A-li-hsien phải đưa Sư phụ trở lại sau khi cuộc triều kiến với Đại hãn đã chu tất.

Ở xứ sở này sáng lạnh, chiều tối nóng; có nhiều cây trổ hoa vàng. Dòng sông chảy về đông bắc. Hai bên bờ mọc nhiều thân liễu cao. Người Mông Cổ dùng cây liễu làm khung lều. Sau mười sáu ngày đường, chúng tôi đến một nơi mà dòng sông Kerulan uốn vòng về tây bắc, bao quanh mấy ngọn núi. Vì thế chúng không theo dòng sông đi đến tận nguồn, mà quày sang tây nam, đi theo lối ngựa trạm [Yi-ehr-li post road: con đường chuyển thư]. Những người Mông Cổ chúng tôi gặp nơi đây đều hân hoan khi thấy Sư phụ; họ bảo đã mong chờ Sư phụ từ năm ngoái…

Các đỉnh núi lớn giờ đây dần dần trông rõ hơn. Từ nơi này trở đi, khi chúng tôi đi về hướng tây, vẫn còn là vùng đồi núi và dân cư đông đúc. Dân chúng sống trên các cỗ xe đen và trong những mái lều trắng; họ đều là thợ săn và người chăn thú. Quần áo họ may bằng da thú, lông thú, lương thực là thịt và sữa cô đặc. Đàn ông thắt tóc thành hai bím, thòng phía sau tai. Phụ nữ có chồng đội nón làm bằng vỏ cây phong (birch), có cái cao khoảng sáu tấc. Thường họ phủ lên nón chiếc khăn len đen; nhà giàu dùng lụa đỏ. Đuôi nón giống con vịt, gọi là ku ku (…).

Ngày 27 tháng Tám (15.9.1219), chúng tôi đến chân núi Yin Shan. Một số người Uighurs ra gặp chúng tôi, và vậy là chúng tôi đã tới một thị trấn nhỏ. Viên quan địa phương đem biếu chúng tôi rượu bồ đào [rượu nho, rượu chát, rượu vang], trái cây ngon, bánh, củ hành, vải Ba Tư…

Đi tiếp về hướng tây là thành phố lớn Beshbalig. Các viên quan, quý tộc, dân chúng, hàng trăm nhà sư, đạo sĩ, đi ra mãi ngoài thành để đón thầy trò chúng tôi. Các nhà sư đều mặc áo nâu. Mũ áo của đạo sĩ không giống như ở Trung Quốc.

Ngày 18 tháng Mười Một (03-12-1219), sau khi vượt qua một con sông lớn, chúng tôi tới vùng ngoại vi phía bắc của thành Samarkand. Quan trấn thành là Ngài I-la, cùng các quan lại Mông Cổ và các viên chức sở tại, ra bên ngoài thành đón thầy trò chúng tôi. Họ mang theo rượu bồ đào và dựng rất nhiều lều. Đoàn xe chúng tôi nghỉ chân nơi đây…

Thành cất dọc theo những kênh đào. Vì mùa hè và thu không mưa, hai con sông được uốn dòng để chảy dọc theo từng đường phố, cung cấp nước dùng cho tất cả dân cư. Trước khi Khwarizm Shah thua trận, dân số nơi đây hơn một trăm ngàn hộ; nay chỉ còn lại một phần tư số này, trong đó một phần rất lớn là người Hui-ho [người Hồi hột]. Những người này hoàn toàn không biết làm đồng áng vườn tược, họ phải thuê người Hoa, Kitai và Tanguts. Việc hành chính ở đây cũng do nhiều người thuộc nhiều quốc tịch rất khác biệt nhau đảm nhiệm. Ở đâu cũng thấy thợ thủ công người Hoa. Trong thành phố có gò lớn cao độ ba chục thước, trên là cung điện mới của Khwarizm Shah…

Viên quan trấn thành cho dọn yến tiệc khoản đãi, và gởi biếu mười tấm gấm thêu vàng (gold brocade), nhưng Sư phụ không chịu tiếp nhận. Sau đó, viên quan này hàng tháng trợ cấp gạo, bột bắp, muối, dầu ăn, rau quả… Càng ngày ông càng tỏ ra cung kính hơn.

Khi thấy rằng Sư phụ uống rất ít, ông xin phép được ép khoảng năm mươi ký nho để làm rượu bồ đào mới cho Sư Phụ. Sư phụ đáp: “Tôi không cần rượu, nhưng hãy cho tôi năm mươi ký nho; tôi sẽ dùng nó để tiếp khách của tôi.” Số nho này giữ được trọn mùa đông. Chúng tôi còn thấy những con công và voi lớn được đưa về từ Ấn Độ, cách hàng ngàn dặm về hướng đông nam.

Cuối tháng nhuận (12-02-1222), toán thám sát trở về, Liu Wên báo cáo với Sư phụ rằng con thứ nhì của Khả hãn (Chagatai) đã đem binh đi trước, sửa thuyền và chữa cầu. Bọn thổ phỉ đã bị quét sạch. Ho-la, Pa-hai và những người khác đã đến doanh trại của ông hoàng này thông báo rằng Sư phụ mong muốn gặp Đại hãn. Ông đáp rằng Đại hãn đã đi về hướng đông nam rặng Đại Tuyết sơn. Nhưng tuyết phủ dày ải quan đến hơn trăm dặm không thể nào qua được. Tuy nhiên hoàng tử nói rõ rằng ông hạ trại ngay trên đường đến chỗ Đại hãn và mời Sư phụ nán lại cùng ông, chờ đến khi nào có thể qua núi.

[Đại Tuyết sơn (Hindu Kush): Rặng núi chủ yếu ở đông bắc Afghanistan. Nó là nhánh phía tây của rặng Hy mã lạp sơn, trải dài tám trăm cây số (năm trăm dặm Anh) hướng về phía tây nam từ rặng núi lớn Pamirs trên đất Nga và gồm luôn rặng Koh i Baba ở Afghanistan. Đỉnh núi cao nhất là Tirich Mir (7.692 thước; tức 25.236 bộ Anh), nằm ở Chitral trên lãnh thổ Pakistan. (LAD chú)]

Từ đây chúng tôi đi về hướng đông nam, và đến chiều tối thì dừng chân gần một kênh đào cũ. Hai bên bờ mọc một loại cây giống như lau sậy nhưng không có ở Trung Quốc. Những cây to còn xanh qua suốt mùa đông. Chúng tôi bẻ lấy mấy cây làm gậy. Một số thì chúng tôi dùng để chống càng xe đêm ấy, và chúng cứng đến độ chẳng hề gãy. Những cây nhỏ rụng lá mùa đông và tươi lại vào mùa xuân. Đi thêm về phía nam giữa các ngọn đồi, có loại tre lớn đặc ruột. Quân lính dùng loại này làm cán giáo, cán lao. Chúng tôi còn thấy những con rắn mối dài cả chín tấc, da xanh đen.

Ngày 29 tháng Ba (11-5-1222), Sư phụ sáng tác một bài thơ. Thêm bốn ngày đường nữa chúng tôi đến trại của Đại hãn. Ngài phái một quan đại thần là Ho-la-po-te đến đón chúng tôi… Khi chỗ ở cho Sư phụ đã được sắp xếp xong, Sư phụ lập tức đến triều kiến Đại hãn. Ngài tỏ lòng cảm kích nói: “Các vua khác triệu khanh đến mà khanh đều từ tạ. Nay khanh lại vượt vạn dặm đến với trẫm. Đây là đại hạnh của trẫm.”

Sư phụ đáp: “Kẻ ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc như hạ thần đến với thánh thượng là ý trời vậy.” Đại hãn đẹp dạ, mời Sư phụ an tọa và sai dọn tiệc. Rồi ngài hỏi: “Từ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?” Sư phụ đáp: “Thần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.” Đại hãn hài lòng vì sự thành thực của Sư phụ, và sai dựng hai lều cho Sư phụ cùng các môn đệ, nằm ở phía bên đông lều của Đại hãn…

Thời tiết càng nóng hơn và Đại hãn di chuyển lên một điểm cao trên dãy Tuyết sơn để tránh nóng. Sư phụ cùng đi theo. Đại hãn ấn định ngày 14 tháng Tư (24-6-1222) sẽ hỏi Đạo. Điều này được các quan Chinkai, Liu Wên, và A-Li-hsien cùng ba quan hầu cận Ngài ghi chép. Nhưng ngay khi đến kỳ hẹn, lại được tin bọn thổ phỉ làm loạn. Đại hãn quyết định thân chinh tiễu trừ, và hoãn lại cuộc hẹn đến ngày mùng 1 tháng Mười (05-11-1222). Sư phụ xin phép được trở về nơi ở cũ trong thành. Đại hãn nói: “Vậy thì khanh sẽ kiệt sức vì đi trọn quãng đường trở lại đây.” Sư phụ nói chỉ là chuyện hành trình hai mươi ngày mà thôi, và khi Đại hãn phản đối rằng chẳng có ai hộ vệ cho Sư phụ thì Sư phụ đề nghị nhờ quan Yang-A-kou…

Chúng tôi vượt qua ngọn núi lớn nơi có “cổng đá”, những trụ đá ở đây trông giống như hai chân nến lớn. Nằm vắt ngang lên trụ là một phiến đá lớn, trông từa tựa chiếc cầu. Dòng suối bên dưới chảy xiết, và đoàn kỵ mã chúng tôi khi thúc bầy lừa chở nặng hành lý vượt suối đã mất hết mấy con lừa chết đuối. Hai bên bờ là xác các thú vật khác cũng đã chết tương tự như vậy. Nơi này là cửa ải, mà trước đây không lâu quân binh đã quyết liệt giao phong để chiếm cứ. Khi chúng tôi ra khỏi hẻm núi, Sư phụ sáng tác hai bài thơ.

Khi Sư phụ đến trại của Khả hãn, cỏ cây vào cuối tháng Ba xanh mượt, khắp nơi cây cối rộ hoa, ngựa và cừu đều béo khỏe. Nhưng khi nhận được phép của Khả hãn để lên đường, trời cuối tháng Tư, chẳng còn lấy một ngọn cỏ cọng rau. Trước cảnh tiêu sơ này, Sư phụ cảm tác một loạt mấy bài thơ.

LÊ ANH DŨNG dịch chú

Giải mã chuyện Tây Du (13) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Hư thực đôi điều


Ngô Thừa Ân tự là Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân (kẻ núi rừng bắn mặt trời), người huyện Sơn Dương, sau đổi là huyện Hoài An, tỉnh Giang Tô. Ông sinh vào khoảng triều Minh Hiếu tông, năm Hoằng Trị thứ 13 (tức 1500), tạ thế triều Minh Thần tông, năm Vạn Lịch thứ 10 (tức 1582), không con nối dõi.

Năm Gia Tĩnh thứ 23 (tức 1544), ông thi đỗ cống sinh, giữ chức huyện thừa ở huyện Trường Hưng, tỉnh Chiết Giang. Năm Long Khánh thứ 1 (1567), ông quay về Sơn Dương, miệt mài cùng thơ rượu. Ông thông minh, mẫn tiệp, đọc nhiều, học rộng, thơ văn nhã lệ (đẹp và nhã). Tác phẩm thất tán hầu hết.

Khưu Chính Võng có gom góp lại một số, gọi là Xạ Dương tồn cảo. Một tác phẩm khác được nhắc tới là Tần thiểu du phong. Nhưng nay chỉ còn sót lại duy nhất Tây du ký, được khen là một trong bốn đại kỳ thư đời Minh, xếp hạng theo thứ tự như sau: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký, Kim Bình Mai.

Trên đây là tiểu sử của Ngô Thừa Ân căn cứ theo Đàm Gia Định.

[Đàm Gia Định, Trung Quốc văn học gia đại từ điển, Thế giới thư cục ấn hành, quyển Hạ, tr. 1101, mục từ 4244.

Trong bài giới thiệu ở quyển Tây du ký do Nhạc lộc thư xã xuất bản, Trường Sa, Trung Quốc, 1984, Hà Mãn tử cho biết thêm hiện còn lưu giữ một trường thi của Ngô Thừa Ân, nhan đề Nhị lang sưu sơn đồ ca. Hà Mãn tử lại viết rằng vào năm 1981, huyện Hoài An tiến hành khai quật và khảo sát mộ của Ngô Thừa Ân tại huyện này. Trên quan tài có chữ Kinh phủ ký thiện, là chức quan cuối đời của ông. Tìm trong quan tài được một sọ người. Sau đó, Trung Quốc học viện về cổ nhân loại và động vật cổ có xương sống nghiên cứu và giám định, các nhà khoa học đã tái tạo một pho tượng bán thân của Ngô Thừa Ân. Cho đến nay, có lẽ đó là trường hợp duy nhất của một tác gia cổ điển Trung Quốc được khoa học tái tạo dung mạo. (Lê Anh Minh dịch, chú)]

Theo Vương Hồng Sển, tằng tổ và nội tổ của Ngô Thừa Ân hai đời liên tiếp làm học quan nhưng cha ông là nhà buôn nhỏ, chuyên bán chỉ màu và hàng thêu. Ngô Thừa Ân có viết Tiên phủ quân mộ chí minh, kể rằng cha ông rất chăm đọc sách. Còn Ngô Quốc Vinh khi viết lời bạt cho Xạ Dương tiên sinh tồn cảo (gồm bốn quyển) thì bảo thuở nhỏ Ngô Thừa Ân đã nổi tiếng văn hay. Trong Thiên Khải Hoài An phủ chí lại chép rằng Ngô Thừa Ân tánh cần mẫn, thông minh, học rộng, đọc nhiều, làm thơ nhanh, thanh nhã, lưu loát, thích hài kịch, viết nhiều tạp ký. Một tác phẩm thất truyền của họ Ngô là Vũ đỉnh chí.

Cũng theo Vương Hồng Sển, tuy Ngô Thừa Ân đa tài, nhưng lận đận đường cử nghiệp. Không rõ ông đậu tú tài năm nào, nhưng đậu tuế cống sinh (tương đương cử nhân) năm 1544, sau này hình như còn đi thi hai lần nữa, đều hỏng! Khoảng tuổi ngũ tuần, hoàn cảnh quẫn bách, Ngô Thừa Ân đến Nam Kinh viết văn bán chữ, rất nổi danh, được chép lại trong Sơn Dương chí dị. Năm 1566, sáu mươi sáu tuổi, ông lão họ Ngô giữ chức huyện thừa huyện Trường Hưng, được ít lâu thì chán cảnh quan trường, rũ áo về quê. Rồi lại được bổ làm chức ký thiện ở Kinh vương phủ, coi việc lễ lộc và đọc chiếu thơ của vương gia trong ba năm thì xin nghỉ [Vương Hồng Sển 1993: 239-241].

Cả hai nguồn tiểu sử trưng dẫn trên đây đều không cho biết Ngô Thừa Ân có phải là một chuyên gia về Lão học, Phật học hay chăng. Dù rằng Tây du ký nói nhiều đến tu đơn, luyện đạo, hành thiền. Hay ông quả thực là cư sĩ đạt đạo, nhưng khía cạnh đời sống tâm linh của ông đã không được thế nhân biết đến?

Thực vậy, tác giả Tây du nếu không là người đắm mình trong tư tưởng siêu thoát của Lão, Phật, nếu không lý hội được đạo thượng thừa vi diệu, thì chắc chắn không viết được những đoạn tưởng như giỡn chơi, mà ý chỉ thì sâu sắc thậm thâm. Ngoài những điều đã trình bày trong chín bài giải mã, cũng thử nêu thêm một ví dụ tiêu biểu nữa để thấy sức học uyên thâm của họ Ngô. Cuối Hồi thứ 17, kể việc thu phục con yêu tinh gấu đen. Truyện kể, theo mưu kế của Tề thiên, Quan âm Bồ tát đồng ý biến hóa ra một con yêu đội lốt đạo sĩ, hiệu Lăng hư tử. Bồ tát biến hóa thế nào? Tây du tả tuyệt khéo:

“Lúc ấy, Bồ tát mở lòng từ bi quảng đại, pháp lực vô biên, ức vạn hóa thân, lấy tâm hội ý, lấy ý hội thân, trong giây lát biến ngay thành Lăng hư tử.

“(…) Hành giả nhìn, nói: Tuyệt quá, tuyệt quá! Ngài là Bồ tát yêu tinh, hay yêu tinh Bồ tát đây?” [TDK I 1982: 154]

Chính vì nội dung Tây du ký ảo diệu cực kỳ, nên có sách lầm cho rằng tác giả Tây du ký không ai khác hơn một đại đạo sĩ tên là Khưu Xứ Cơ, tức Khưu Trường xuân, hay Trường xuân Chân nhân, thuộc phái Toàn chân của đạo Lão. [Về tiểu sử Khưu Xử Cơ, xem “Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân tây du ký”.]

Theo truyện Thất chơn nhơn quả, Hồi thứ 29, Khưu Trường xuân (Lão) và Bạch vân Thiền sư (Phật) sau những bất đồng, xung đột kịch liệt đã cùng nhau giảng hòa, dẹp hết mọi thị phi tranh đua hơn thiệt. Bấy giờ Khưu Trường xuân đem công phu tu luyện cửu cửu để làm tám mươi mốt nạn của Tam tạng, lại lấy chơn tánh, bổn tâm, tâm viên, ý mã, lục dục, thất tình… mà diễn thành các nhân vật Tây du, yêu tinh quỉ quái. Sau khi hoàn tất, bộ Tây du này được Khưu Chơn nhơn trao tặng Thiền sư Bạch vân.

Con gà tranh nhau tiếng gáy! Dứt đấu phép lại tới chuyện đấu văn chương nghĩa lý. Thiền sư thấy ông bạn đạo Tiên mà thuật chuyện đạo Phật quá tài, chẳng lẽ chịu lép, bèn đáp lễ, nên tuy khoác áo cửa Phật, mà vẫn đem quan điểm tu tiên của đạo Lão diễn bày thành truyện Phong thần, kể việc các thiên tiên và địa tiên (xiển giáo và triệt giáo), người vì thuận mệnh Trời theo phò Khương Tử Nha phạt Trụ, kẻ vì chống Thiên cơ dốc lòng ủng hộ Thái sư Văn Trọng đương cự lại vua Vũ. Truyện Phong thần tuy mượn sự tích vua Vũ đánh vua Trụ, nhưng thật ra là kể chuyện tu hành tạo tiên tác phật. Dĩ nhiên, sau khi viết xong Thiền sư liền đem tặng lại Chơn nhơn pho truyện này.

[Thất chơn nhơn quả, tác giả khuyết danh (?), bản dịch tiếng Việt của Lâm Xương Quang. Theo nghiên cứu của Huệ Nhẫn, Lâm Xương Quang tức là Lâm Đạo Nguơn, cũng gọi ông lão Tám, vì ông tu tới phẩm lão sư trong đạo Minh sư. Ông thuộc tông Hoằng tế, trụ tại Quan âm Phật đường (ấp Thâm Nhiên).

Lưu ý: Từ 24-4-1957, ấp Thâm Nhiên thuộc xã Thanh Phú Long, tổng Thanh Mục Hạ, quận Châu Thành, tỉnh Long An. Từ 04-4-1989, ấp và xã này thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Long An (LAD chú).]

Thất chơn nhơn quả giải thích sự ra đời của hai pho tiểu thuyết Tây du Phong thần như lược bày trên đây không phải vô cớ. Giữa hai tiểu thuyết này có một số chi tiết trùng hợp ngẫu nhiên:

– Cả hai đều dựa vào một chút lịch sử Trung Quốc để hư cấu thành tiểu thuyết huyền môn. (Do đó, trộm nghĩ Tây du giải mã được thì biết đâu Phong thần mai kia cũng sẽ được giải mã.)

– Cả hai đều có đúng 100 hồi.

– Cả hai cùng xuất hiện vào đời nhà Minh. (Theo Thất chơn nhơn quả thì hai pho này có sớm hơn, nhằm vào đời Nguyên, triều Thuận Đế, trong khoảng năm 1333-1344! Dĩ nhiên, khi xét về tính chân xác của sử liệu, “thuyết” của Thất chơn nhơn quả không chấp nhận được.)

Theo từ điển Từ hải [Trung Hoa thư cục, Đài Loan, 1948, mục từ Phong thần truyện, tr. 433.], truyện Phong thần xuất hiện ở Trung Quốc vào đời Minh, tác giả khuyết danh. Nhưng ở Nhật, cùng thời đại nhà Minh, lại có một bản khắc Phong thần khác, dài 120 hồi, và ghi tác giả là Hứa Trọng Lâm.

Còn có lý do nào khác để khiến người ta lầm lẫn cho rằng tác giả Tây du ký là Khưu Trường xuân?

Sự lầm lẫn này rất lý thú vì trong lịch sử quả thực liên quan đến Khưu Trường xuân còn có một bản Tây du ký thứ hai.

Từ hải (mục từ Tây du ký, tr. 1224) chỉ cho biết vắn tắt, đời Nguyên có Lý Chí Thường soạn quyển Trường xuân Chân Nhân [tây] du ký, ghi chép hành trình sang phương Tây của đạo sĩ Khưu Xứ Cơ.

Giáo sư Liu Ts’un-Yan, viện sĩ của Viện hàn lâm Khoa học Nhân văn Úc (the Australian Academy of the Humanity) cũng đồng thời là khoa trưởng Khoa Hán ngữ của Viện Đại học Quốc gia Úc (Australian National University), có một bài khảo cứu rất công phu về công cuộc kết tập và giá trị lịch sử của Đạo tạng, với nhan đề The Compilation and historical value of the Tao-Tsang. [Đã in trong hiệp tuyển Essays on the sources for Chinese history (những người chủ biên: Donald Leslie, Colin Mackerras, Wang Gung Wu; NXB Canberra Australian National University Press, 1973, tr. 104-119).] Trong khảo cứu này (tr. 117), Giáo sư Lưu cho biết rằng một sử gia nổi tiếng đời Thanh là Tiền Đại Hân (1728-1804) đã có nghiên cứu về quyển Trường xuân Chân nhân tây du ký. Quyển du ký này được Arthur Waley dịch sang tiếng Anh với nhan đề The Travels of an alchemist (Hành trình của một nhà luyện đan), in ở London năm 1931. Trước đó, năm 1866, đã có Palladius lần đầu tiên dịch tác phẩm ấy sang tiếng Nga.

Cũng theo Giáo sư Lưu, năm 1795 Tiền Đại Hân phát hiện rằng quyển Trường xuân Chân nhân tây du ký là một quyển nằm trong bộ Đạo tạng, tàng trữ ở Huyền diệu quán, đất Tô Châu. Đây là câu chuyện về cuộc hành trình của Khưu Xứ Cơ vào năm 1222, đi về phương tây để gặp Thành cát Tư hãn trên rặng phía bắc của dãy núi Hindu Kush. [Dãy núi Hindu Kush dài 800 km, nằm ở đông bắc Afghanistan, là nhánh phía tây của dãy Himalayas.]

Liên quan đến quyển du ký trên đây còn có một tác phẩm khác của Cheng-siang Chen, nhan đề Trường xuân Chân nhân tây du ký đích địa lý học bình chú, in năm 1968, trong Research Report No 8., Geographical Research Centre, Graduate School, University of Hong Kong.

Về mối quan hệ giữa nhà chinh phục Mông Cổ và đạo sĩ Trung Quốc này, từ điển Từ hải cho biết Nguyên Thái tổ (Thiết Mộc Chân, Thành cát Tư hãn) vô cùng thân thiết Khưu Xứ Cơ, ban cho đạo sĩ nhiều ân huệ: chỗ ở của Khưu gọi là Trường xuân cung, sau này chính là Bạch vân quán nằm ở phía tây huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn Đông.

Với đầy đủ các cứ liệu văn học và lịch sử như trên, đương nhiên có thể kết luận rằng “thuyết” của Thất chơn chơn quả về tác giả Tây du ký và Phong thần là không đúng với lịch sử.

Tây du ký do Ngô Thừa Ân viết vào đời Minh là tiểu thuyết huyền môn. Là tiểu thuyết nên nội dung hoàn toàn hư cấu.

Trường xuân Chân nhân tây du ký là do Lý Chí Thường soạn vào đời Nguyên, là du ký, không phải tiểu thuyết. Quyển này được giới đạo sĩ Trung Quốc liệt vào Đạo tạng, một kho tàng đồ sộ bao gồm kinh điển và tác phẩm của đạo Lão, gồm tổng cộng 5.485 quyển. [Đạo tạng, gồm 5.305 quyển, kết tập từ đời Minh, hoàn tất năm 1445; sau đó bổ sung thêm Tục đạo tạng, gồm 180 quyển, kết tập năm 1607. Vậy, tổng cộng có 5.485 quyển.]

Khưu Trường xuân là ai? Lý Chí Thường là ai? Mục đích gì mà Khưu Trường xuân phải vạn lý du hành để giáp mặt cùng Đại Hãn? Nội dung Trường xuân Chân nhân tây du ký là chi? Tài liệu này hiện nay không dễ kiếm! Do đó, nhân dịp nói chuyện tiểu thuyết Tây du ký (hư cấu) cũng nên biết thêm về bản Tây du ký phi hư cấu trong kho tàng văn học đạo Lão Trung Quốc (xem tiếp Phụ lục “Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân tây du ký”).

Nói thêm:

Theo [Vương Hồng Sển 1993: 234], đời nhà Minh còn có bản Tây du thứ ba, tác giả là Dương Chí Hòa. Họ Dương đem chuyện thỉnh kinh của Trần Huyền Trang đời Đường viết thành tiểu thuyết truyền kỳ, nhan đề Tây du ký truyện, “tuy bốn mươi mốt hồi, nhưng nội dung cũng gần đầy đủ bằng Tây du ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân. (…)Văn chương của Tây du ký diễn nghĩa lưu loát, ý nghĩa lại thâm thúy, súc tích hơn, do đó tuy cùng một nội dung, nhưng Tây du ký diễn nghĩa lại được phổ biến rộng rãi, còn Tây du ký truyện thì ít được biết đến.”

Không hiểu Vương Hồng Sển căn cứ vào đâu đã cho rằng: “Chính Ngô Thừa Ân đã lấy tài liệu trong Tây du ký truyện của Dương Chí Hòa để viết thành bộ truyện của mình.” (tr. 234).

LÊ ANH DŨNG

(21-02-1993 – 22-01-1995)

Giải mã chuyện Tây Du (12) – Dũ Lan Lê Anh Dũng: Tâm Lập


Giải mã truyện Tây du, bài Sáu bảy mười ba giải về thập tam ma (lục dục, thất tình). Để hàng phục tâm, chuyện không dễ. Mà khi tâm đã hàng phục rồi, thì sao? Bức ảnh thiền trên đây viết rất đẹp hai chữ Tâm lập. Tâm lập mang ý nghĩa gì?

Tâm lập nghĩa là tâm đã đứng vững vàng, đã an định, không còn điên đảo trước mọi yếu tố đảo điên.

Lòng ta ta đã chắc rồi,

Dễ ai giục đứng giục ngồi mà nao.

Dù ai nói ngả nói nghiêng,

Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân.

Dù ai nói đông nói tây,

Ta đây vẫn vững như cây trên rừng.

Làm sao đạt được tâm lập?

Lục dục, thất tình. Mười ba cái đó bủa vây tấn công lòng người. Chúng làm cho tâm phàm thoạt vầy thoạt khác, như khỉ vượn lăng xăng nhảy nhót chuyền leo (tâm viên: vượn lòng). Tâm không trụ, cứ bôn ba chạy theo cảnh đời bôn ba, như ngựa hoang rong ruổi mặc tình (tâm mã: ngựa lòng). Lòng người có khi chợt nổi sóng triều dâng, cuồn cuộn vì ham muốn, vì khát vọng (tâm ba: sóng lòng). Có khi nung nấu bừng bừng, như lửa cháy đốt thiêu vì phẫn nộ, sân hận (tâm hỏa: lửa lòng). Tâm như thế không phải là tâm thanh tịnh, mà chỉ toàn những cặn cáu, bụi bặm quậy lên ngầu đục (tâm cấu, tâm trần: bụi bặm trong tâm).

Thiền nhà Phật dạy thế nhân con đường minh tâm kiến tánh. Sáng lòng thấy tánh thì giác ngộ, đắc đạo, thành phật thành tiên. Nhưng tâm phàm vốn chất chứa đủ thứ rộn ràng, vốn đa mang bộn bề hệ lụy thì làm sao minh tâm để được sáng lòng? Hẳn nhiên không dễ! Cho nên, sự uy hùng của con người không phải là chiến thắng muôn vạn hùng binh giữa chốn chiến trường hòn tên mũi đạn; sự uy hùng của con người nằm ở một mặt trận khác, tuy rằng cuộc chiến thầm lặng, cô đơn, không có máu me xương thịt tan tành mà lại vô cùng dữ dội, cực kỳ quyết liệt. Mặt trận đó nơi đâu? Thưa rằng, kinh Pháp cú còn ghi lời Phật dặn dò: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.”

Kẻ nào tự thắng chính bản thân mình, đó mới đích thực là con người đại hùng đại lực. Tu sĩ Cồ đàm đã tự thắng nên được xưng tán là Đại hùng. Chánh điện trang nghiêm thờ Phật Thích ca vì thế được tôn xưng là Đại hùng bửu điện.

Đề tài hàng phục tâm thể hiện rõ trong ảnh thiền Tâm lập. Thanh gươm và cái khiên là hình ảnh tượng trưng cho chiến sĩ, hay trang kiếm khách. Kiếm khách này không chinh phục tha nhân mà chỉ chinh phục bản tâm. Trận chiến không diễn ra ngoài nội tâm mà chỉ là những trận quyết đấu một mất một còn ở nội tâm để đoạn trừ thập tam ma (lục dục, thất tình), cũng như mọi thứ phiền não chướng ngại khác ngõ hầu chuyển hóa tâm trần cấu đảo điên trở thành tâm thanh tịnh, an định.

Trong trận chiến tưng bừng khốc liệt giữa thầm lặng cô đơn, vũ khí duy nhất của kiếm khách chính là trí huệ. Phải dùng trí huệ để đoạn diệt mọi chướng ngại. Như dùng dao bén gươm sắc mà chặt đứt lìa tất cả. Trong ý nghĩa biểu tượng đó, các thiền sư mệnh danh trí huệ là huệ kiếm, huệ đao.

Kinh Duy ma cật chép: “Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc.” (Lấy gươm trí huệ phá giặc phiền não.)

Tương tự, trong truyện thơ Quan âm Thị Kính, dân gian Việt Nam có câu:

Này gươm trí huệ mài đây,

Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.

Đối với những hành giả trót đã chọn đời kiếm khách độc hành, mang gươm cất bước vào cõi tịch liêu trên dặm trường thiên lý quay về nội tâm cô đơn, thì mọi phiền não, mọi chướng ngại của tâm cũng chính là những nợ nần cần phải thanh toán một lần cho sạch sẽ. Kinh cầu siêu Cao đài có câu:

Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

Nhìn lại ảnh thiền Tâm lập, thấy rõ thanh gươm hãy còn nằm nguyên trong bao. Và để gác lên tấm khiên. Thanh bình thay, yên ả thay! Cuộc chiến đã tàn. Chàng hiệp khách năm xưa nay đã rửa tay gác kiếm rồi. Tâm ấy thôi không còn gì phong ba phiền não. Trên mặt tấm khiên, hình con rồng như nét vẽ trang trí, mà cũng như nói xa nói gần đến thuật ngữ của thiền gia đạo Lão và hành giả Cao đài: hàng long phục hổ (thu phục rồng cọp).

Trong trận chiến riêng tư của từng kiếm khách với thập tam ma, bao giờ mới có thể rửa tay gác kiếm? Câu trả lời chẳng dễ, vì thời gian không hề được định mức ở đây.

Đức Khổng tử phải đến bảy mươi tuổi mới dám bảo tâm đã định, đã lập, bấy giờ tâm muốn sao cũng có thể chìu theo vì không còn sợ lâm vấp lỗi lầm nữa [“Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ.” Luận ngữ: Vi chính, câu 4].

Học trò Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu tên là Linh Vân cũng đã phải mài kiếm (tu tập thiền định) suốt ba mươi năm. Một hôm chợt nhìn thấy hoa đào nở mà chứng ngộ (satori). Thiền sư Linh Vân cảm khái:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách,

Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi.

Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu,

Trực chí như kim bất cánh nghi.

Có người dịch:

Ba chục năm qua tìm kiếm khách,

Bao phen lá rụng với cành trơ.

Một lần từ thấy hoa đào nở,

Cho đến ngày nay dạ chẳng ngờ.

Đáng sợ một nỗi, đề tài Tâm lập trên tấm ảnh thiền này lại là sáng kiến của một… tiệm ăn bên xứ Phù Tang: Thạch điền tửu điếm. Để trang trí cho tờ lịch treo tường năm 1984, tháng Sáu.

Lấy cái thâm vi tế nhị của thiền đem đặt vào một chỗ uống ăn rất đời thường giữa sự thế phồn hoa; phải chăng ai đó muốn gửi gắm lại cho đời ý nghĩa rốt ráo của người xưa, rằng: thiền đích thị là thiền trong chỗ chẳng thiền?

LÊ ANH DŨNG

Đã đăng Văn hóa & Đời sống, tháng 4-1992. Có sửa chữa lại (22-01-1995).